Khái quát về Hưng Yên

banana

Thành viên mới
Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý
Tỉnh Hưng Yên nằm trong vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đây là cửa ngõ phía Đông của Hà Nội. Phía Bắc, Hưng Yên giáp huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), địa giới dài 16 km. Phía Tây Bắc giáp huyện Gia Lâm (Hà Nội), địa giới dài gần 20 km. Phía Đông Hưng Yên giáp tỉnh Hải Dương. Phía Tây giáp Hà Nội và Hà Nam, có sông Hồng làm ranh giới tự nhiên. Phía Nam Hưng Yên giáp tỉnh Thái Bình, ngăn cách bởi sông Luộc. Nhìn chung, ranh giới tự nhiên của Hưng Yên được bao bọc bởi những con sông (trừ khu vực phía Bắc không có địa giới tự nhiên do từ xưa địa giới khu vực này hay biến đổi).
Hưng Yên cũng nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc nên có những thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên do địa hình trong tỉnh có nhiều sông rạch nhưng lại thiếu hệ thống cầu nên việc giao lưu bị hạn chế.
Khí hậu
Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng
Đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa đông lạnh. Hàng năm có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt. Số giờ nắng trung bình
1.730 giờ/năm, số ngày nắng trong tháng là 24 ngày; nhiệt độ trung bình năm là 23,4oC, nhiệt độ cao nhất là 40,40C (tháng 06/1939). Tổng nhiệt độ trung bình của năm từ 8.500 - 8.600oC. Giữa hai mùa trong năm, biên độ nhiệt thường là 130C. Lượng mưa trung bình từ 1.
800 - 2.200 mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm. Từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm tới 70% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí trung bình trong năm là 86%, tháng cao nhất 92%, thấp nhất 79%. Tài nguyên thiên nhiên
Hưng Yên, với đặc trưng của một tỉnh đồng bằng, không có đồi, núi; địa hình tương đối bằng phẳng. Đất nông nghiệp 61.037 ha,
diện tích cây hàng năm 55.645 ha (chiếm 91%), còn lại là đất trồng cây lâu năm, mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất chuyên dùng và đất sử dụng cho các mục đích khác. Đất chưa sử dụng khoảng 7.471 ha, toàn bộ diện tích trên đều có khả năng khai thác và phát triển sản xuất nông nghiệp. Hưng Yên là một tỉnh được bao bọc bởi sông Hồng và sông Luộc nên có nguồn nước ngọt rất dồi dào. Nguồn nước mặt cũng hết sức phong phú (sông Hồng có lưu lượng dòng chảy 6.400m3/s). Nước ngầm của Hưng Yên cũng rất đa dạng với trữ lượng lớn, ở dọc khu vực quốc lộ 5A từ Như Quỳnh đến Quán Gỏi có những mỏ nước ngầm rất lớn, hàng triệu m3, không chỉ cung cấp nước cho phát triển công nghiệp và đô thị mà còn có thể cung cấp khối lượng lớn cho các khu vực lân cận.
Hưng Yên có nguồn than nâu (thuộc bể than nâu vùng
Đồng bằng sông Hồng) có trữ lượng rất lớn (hơn 30 tỷ tấn) hiện chưa được khai thác, song đây cũng là một tiềm năng lớn cho phát triển ngành công nghiệp này để cung cấp nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu. Du lịch
Di tích, danh thắng, lễ hội
Di tích: Văn miếu
Xích Đằng, khu di tích Phố Hiến, chùa Hiến, khu di tích Hải Thượng Lãn Ông, đền Dạ Trạch, đầm Dạ Trạch, đền Mẫu, đền Mây, chùa Nễ Châu, chùa Thụy Ứng, đền Phượng Hoàng, chùa Pháp Vân, chùa Phú Thị... Lễ hội: lễ hội Chử Đồng Tử, lễ hội chùa Tứ Pháp, lễ hội Phù Ủng
Làng nghề: nghề đúc Đại Đồng, nghề chạm bạc Phù Ủng, nghề hương xạ Cao Thôn, dệt lụa Vân Phương,...
Đặc sản
Thiên nhiên, đất đai sông nước đã ban tặng cho người Hưng Yên những sản vật quý giá, phong phú mang đậm bản sắc của địa phương, đó là các loại hoa quả và các món ăn độc đáo
.
  • Nhãn lồng Phố Hiến
  • Sen
  • Bún thang
  • Tương Bần
  • Ếch om Phượng Tường
  • Bánh dày làng Gầu
  • Chả gà Tiểu Quan
Hành chính
Tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 01 thị xã, 09 huyện ; có 07 phường, 09 thị trấn và 145 xã. Thị xã Hưng Yên là trung tâm chính trị, văn hóa của tỉnh. 9 huyện gồm : Ân Thị, Khoái Châu, Kim Động, Mỹ Hào, Phù Cừ, Tiên Lữ, Văn Giang, Văn Lâm, Yên Mỹ. Tỉnh được thành lập từ 01/01/1997 sau gần 30 năm hợp nhất với tỉnh Hải Dương.
Lịch sử hình thành và phát triển
Vào thời Hùng Vương
, nước ta được chia làm 15 bộ, Hưng Yên thuộc bộ Giao Chỉ. Đến thời kỳ phong kiến phương Bắc đô hộ (207 TCN đến 939 SCN), vào thời nhà Tần từ năm 214 TCN đến 204 TCN, nước ta chia làm 2 quận, Hưng Yên thuộc Tượng quận. Đến đời nhà Triệu từ năm 207 TCN đến 111 TCN trong nước được chia làm 2 quận, Hưng Yên thuộc quân Giao Chỉ. Từ năm 111 TCN đến 39 SCN: nhà Đông Hán nước ta gồm 9 quận, Hưng Yên thuộc quận Giao Chỉ. Năm 226 đến 265: thuộc Đông Ngô, nhà Ngô tách Giao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu, Hưng Yên thuộc quận Giao Châu.
Năm 603 đến 939: nhà Tuỳ, Đường. Nhà Tuỳ chia đất Giao Châu thành 3 quận. Hưng Yên thuộc quận Giao Chỉ. Đến nhà Đường lại chia cắt Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và gọi nước ta là An Nam đô hộ phủ. Hưng Yên thuộc huyện Vũ Bình, châu Giao Châu.
Bắt đầu từ nhà Ngô (939 – 965
), nước ta đã thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, Hưng Yên được gọi là Đằng Châu. Vào thời nhà Đinh, trong nước được chia làm 10 đạo, Hưng Yên thuộc Đằng đạo. Năm 1002, đổi 10 đạo trong nước làm lộ, phủ và châu, Hưng Yên thuộc Đằng Châu. Năm 1005, đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Vào thời nhà Lý, năm 1010, đổi 10 đạo thành 24 lộ, đến năm 1222, chia trong nước làm 24 lộ, Hưng Yên thuộc lộ Khoái Châu hay còn gọi là Khoái lộ. Vào thời nhà Trần, năm 1249
, trong nước gồm 12 lộ, Hưng Yên thuộc Khoái lộ. Đến tháng 4 năm 1397, đổi tên gọi các lộ, phủ thành trấn, Hưng Yên thuộc Thiên Trường phủ lộ. Tháng 6 năm 1407, nhà Minh đổi An Nam thành Giao Chỉ, lập phủ huyện, có 17 phủ. Hưng Yên, thuộc phủ Kiến Xương và Trấn Nam nay thuộc Thái Bình. Năm 1426
, Lê Lợi chia Đông Đô làm 4 đạo, Hưng Yên thuộc Nam đạo. Vào đời Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất 1428, lại chia làm 5 đạo. Hưng Yên, thuộc Nam đạo. Tháng 6 năm 1466, đời Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 7, chia nước ta làm 12 đạo thừa tuyên, Hưng Yên, thuộc thừa tuyên Thiên Trường. Đến tháng 3 năm 1469, đời Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 10, đây là năm đầu tiên nước nhà định bản đồ. Thừa tuyên Thiên Trường, đổi tên là Sơn Nam, quản lĩnh 11 phủ 42 huyện. Phủ Khoái Châu quản lĩnh 5 huyện: Đông Yên, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Dung, Thiên Thi. Phủ Tiên Hưng quản lĩnh 4 huyện: Ngự Thiên, Duyên Hà, Trần Khê và Thanh Lan. Bắc Giang đổi làm Kinh Bắc, quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện. Huyện Văn Giang thuộc phủ Thuận An. Nam Sách đổi làm Hải Dương, quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện. Huyện Đường Hào, sau đổi tên thành huyện Mỹ Hào, thuộc phủ Thượng Hồng. Tháng 4 năm 1490, đời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 21, trong nước gồm 13 xứ, Hưng Yên thuộc xứ Sơn Nam. Năm 1527, tháng 6, nhà Mạc, Mạc Đăng Dung đặt Hải Dương làm Dương Kinh, đem các lộ Thái Bình, Kiến Xương, Long Hưng, Khoái Châu lệ thuộc vào Hải Dương. Đầu niên hiệu Quang Hưng (1578-1599)
, đời vua Lê Thế Tông: Đổi lại như cũ. Hưng Yên, lại thuộc xứ Sơn Nam. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), đời Lê Hiển Tông, tháng Giêng, chia Sơn Nam thành 2 lộ: Thượng và Hạ. Phủ Khoái Châu thuộc về lộ Sơn Nam Thượng, phủ Tiên Hưng thuộc về Sơn Nam Hạ. Đến đời Tây Sơn, đổi lại làm 2 trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. Năm 1802
, niên hiệu Gia Long thứ nhất: Lấy 2 trấn Thượng và Hạ lệ thuộc vào Bắc Thành (Sơn Nam Thượng, Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương là 5 nội trấn của Bắc Thành). Năm 1822 Minh Mệnh thứ 3: Trấn Sơn Nam Thượng đổi gọi là trấn Sơn Nam Định. Tháng 10 năm 1831 Minh Mệnh thứ 12: Chia đặt địa hạt các tỉnh, tất cả có 18 tỉnh. Hưng Yên thống trị 2 phủ gồm 8 huyện. Tỉnh Hưng Yên, lấy phủ Khoái Châu (gồm 5 huyện: Đông An, Kim Động, Thiên Thi, Phù Dung, Tiên Lữ) trước thuộc Sơn Nam và phủ Tiên Hưng (gồm 3 huyện: Hưng Nhân, Thần Khê, Duyên Hà) trước thuộc Nam Định đặt riêng làm tỉnh. Tháng 2 năm 1890, thành lập đạo Bãi Sậy gồm 4 huyện: Văn Lâm, Cẩm Lương, Yên Mỹ, Mỹ Hào. Tháng 3 năm 1890, cắt huyện Thần Khê về tỉnh Thái Bình. Tháng 4 năm 1891, bãi bỏ đạo Bãi Sậy, đưa các huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào nhập vào tỉnh Hưng Yên. Ngày 28 tháng 11 năm 1894, cắt 2 huyện Hưng Nhân và Duyên Hà về tỉnh Thái Bình.
Đến năm 1945: Tỉnh Hưng Yên gồm có các phủ, huyện: Khoái Châu, Mỹ Hào, Tiên Lữ, Kim Động, Ân Thi, Phù Cừ, Văn Lâm, Yên Mỹ.
Đầu năm 1946: Chính quyền cách mạng bỏ phủ, tống, thành lập xã, thôn. Tỉnh Hưng Yên có 8 huyện gồm 116 xã (Ân Thi: 16 xã, Tiên Lữ: 12 xã, Phù Cừ: 12 xã, Yên Mỹ: 15 xã, Khoái Châu: 22 xã, Kim Động: 14 xã, Văn Lâm: 11 xã, Mỹ Hào: 14 xã).
Tháng 8 năm 1946: Thành lập thị xã Hưng Yên gồm 2 khu phố Đẩu Lĩnh và Đằng Giang. Năm 1947: Sau khi nhập huyện Văn Giang về thì Hưng Yên có 10 huyện, thị như ngày nay. Ngày 26/1/1968
, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH phê chuẩn việc hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, thành tỉnh Hải Hưng. Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, đã phê chuẩn việc chia tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 1/1/1997, Tỉnh Hưng Yên được tái lập, gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: thị xã Hưng Yên, huyện Mỹ Văn, Châu Giang, Ân Thi, Kim Động, Phù Tiên, với 160 xã, phường, thị trấn. Ngày 24/2/1997, Chính phủ ra Nghị định số 17/CP chia huyện Phù Tiên thành huyện Phù CừTiên Lữ. Ngày 24/7/1999: Chính phủ phê duyệt cho 2 huyện Châu Giang và Mỹ Văn chia tách thành 5 huyện: Văn Giang, Khoái Châu, Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ. Ngày nay tỉnh Hưng Yên gồm: thị xã Hưng Yên và 10 huyện là: Ân Thi, Khoái Châu, Kim Động, Mỹ Hào, Phù Cừ, Tiên Lữ, Văn Giang, Văn Lâm, Yên Mỹ. Kinh tế
Vùng đất Hưng Yên
, đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài. Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long "Kẻ Chợ" đều phải dừng ở Phố Hiến đợi giấy phép, nên Phố Hiến trở thành tụ điểm sầm uất. Người Tàu, người Nhật và người Tây phương đều đến đấy buôn bán. Do vậy, dân gian đã có câu: "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến". Ngày nay, Hưng Yên tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, hình thành các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra vùng chuyên canh, thâm canh, sản xuất hàng hoá chất lượng cao. Công nghiệp phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo ngành, sản phẩm, vùng và thành phần kinh tế, chú trọng phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực, như điện tử, cơ khí, luyện thép, ô tô, xe máy, dệt may, chế biến.... Phát triển, khai thác thế mạnh của các ngành dịch vụ còn nhiều tiềm năng, có giá trị gia tăng cao như: vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính, tín dụng, bảo hiểm, du lịch, khách sạn, vui chơi giải trí..., gắn phát triển du lịch với các di tích lịch sử văn hoá như: cụm di tích Phố Hiến, Đa Hoà
- Dạ Trạch, Tống Trân - Cúc Hoa, đền Phù Ủng, Khu di tích Danh y Hải Thượng Lãn Ông, các nhà tưởng niệm danh nhân. Văn hoá
Hưng Yên
là quê hương của nhiều danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc như: Phạm Phòng Át, Phó Đức Chính, Đoàn Thị Điểm, Phạm Bạch Hổ, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trung Ngạn, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Bình Chính, Lê Hữu Danh, Đỗ Thế Diên, Nguyễn Thiệu Dương, Đào Nương, Lữ Đường, Hoàng Nghĩa Giao, Hoàng Nghĩa Hồ, Lê Như Hổ, Nguyễn Hải Kế, Lê Hữu Kiều, Lê Hữu Mưu, Đào Công Soạn, Nguyễn Đình Tố, Nguyễn Thiện Thuật, Lê Hữu Trác, Dương Bá Trc, Chu Mạnh Trinh, Phạm Công Trứ, Vũ Thái Phi, Trần Công Xán... Hưng Yên cũng là quê hương
của những loại hình văn hóa dân gian đặc sắc của Việt Nam như hát xẩm, hát ả đào, hát chèo... Các loại nhạc cụ truyền thống là đàn bầu, sáo, nhị... Giao thông
Hưng Yên
là cửa ngõ phía Đông của thành phố Hà Nội, với 23 km quốc lộ 5A, từ thị trấn Như Quỳnh đến Minh Đức, trên 20 km tuyến đường sắt thành phố Hà Nội – Hải Phòng chạy qua từ thị trấn Như Quỳnh đến Lương Tài. Ngoài ra có quốc lộ 39A từ Phố Nối đến Triều Dương, quốc lộ 38 nối từ quốc lộ 5 qua thị xã đến quốc lộ 1A qua cầu Yên Lệnh và quốc lộ 10 qua cầu Triều Dương. Đây là trục giao thông quan trọng nối các tỉnh Tây - Nam Bắc Bộ với Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, quốc lộ 38B từ Cầu Tràng đến Chợ Gạo. Với hệ thống sông ngòi dày đặc
, nên việc giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt đều thuận lợi. Đặc biệt về đường thủy: Sông Hồng là ranh giới của Hưng Yên với các tỉnh, thành phía Tây, dài 57 km. Sông Luộc là ranh giới với tỉnh Thái Bình dài 25 km. Sông Luộc và sông Hồng giao nhau tại địa phận thị xã Hưng Yên. Ngoài ra, còn các sông nhỏ khác như: sông Sặt, sông Chanh, sông Cửu Yên, sông Tam Đô, sông Điện Biên ...v.v. Hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp tỉnh này.
 
Bên trên